Site icon 33WIN

Mark Viduka: Giữa hai dòng máu

thumb bai TDP

Sự phức tạp về lịch sử di cư của nước Úc đã hình thành nên tính cách riêng cho nền bóng đá quốc gia này, với Mark Viduka là một nhân chứng điển hình.

Hơn một thập kỷ chinh chiến tại vương quốc Anh trong màu áo những Celtic, Leeds United, Middlesbrough và Newcastle United, cái tên Mark Viduka đã viết nên câu chuyện của riêng mình, về một tiền đạo chất lượng hàng đầu ở giai đoạn đầu thập niên 2000s. Thế nhưng, đối với người dân Australia, chân sút gốc Nam Tư cũ lại mang một sứ mệnh khác.

Bóng đá Úc hoàn toàn chìm đắm trong sự tăm tối vào giữa những năm 1990, khi giấc mơ tham dự World Cup thường xuyên vụn vỡ sau những trận play-off liên lục địa. Đã quá lâu rồi kể từ lần đầu tiên ĐT Australia đặt chân tới ngày hội bóng đá lớn nhất hành tinh vào năm 1974 với sự kiên nhẫn dành cho một nền bóng đá thất bại cũng dần trở nên cạn kiệt, đặc biệt là khi văn hóa chơi bóng ở xứ sở này có vẻ như không mấy văn minh trong mắt giới mộ điệu.

Với các đội bóng được thành lập mang theo bản sắc dân tộc, dành cho các cộng đồng người Italia, Hy Lạp, Macedonia, Hungary, Croatia… những trận cầu diễn ra vào cuối tuần ở các khu ngoại ô dường như mang tính chính trị nhiều hơn là vì một nền thể thao tiến bộ. Giải đấu vô địch quốc gia dần trở nên tồi tệ, cực đoan và mang tính phân biệt, kỳ thị.

Xuất thân là một đứa trẻ có gốc gác Nam Tư cũ di cư tới châu Đại Dương (cha là người Croatia, mẹ là người lai Croatia và Ukraine), Mark Viduka đã có màn ra mắt Melbourne Knights khi mới 17 tuổi. Chỉ chơi cho CLB vỏn vẹn hai mùa giải nhưng “thần đồng” của bóng đá Úc đã hai lần giành được danh hiệu chiếc giày vàng cũng như huy chương Johnny Warren cho cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu và dẫn dắt đội nhà tới chức vô địch lần đầu tiên ở mùa giải 1994/95.

Giữa một đất nước khô hạn niềm tin vào bóng đá, Viduka bỗng dưng trở thành tia hy vọng đầy tiềm năng nhưng lại thể hiện một thái độ không mấy… tích cực. Khi được phỏng vấn về công việc mình thích làm nhất sau bóng đá, Viduka thản nhiên trả lời. “Đó là đi ngủ”.

Cầu thủ sinh năm 1975 cũng chẳng quan tâm nhiều đến tương lai. “Tôi tin là mình sẽ phù hợp với hầu hết các giải đấu ở châu Âu. Nhưng thực lòng thì tôi không thích nước Anh lắm, có lẽ tốc độ ở đây hơi nhanh và tôi nghĩ mình là một cầu thủ khá lười biếng. Tôi không muốn phải chạy quá nhiều như vậy”, Vidula chia sẻ.

Ngay cả khi đã trở thành tuyển thủ quốc gia Australia thì không phải người Úc nào cũng hâm mộ Viduka bởi nguồn gốc Croatia của anh. “Cậu ấy có cần thiết phải ăn mừng theo kiểu phát xít và hôn lên quốc kỳ Croatia mỗi khi ghi bàn hay không?”, “Nếu yêu Croatia đến vậy thì tốt nhất anh ta nên trở về quê hương của cha mẹ mình”, đó là những lời nhận xét dành cho Viduka vào năm 1994. 

Đến năm 1995, Viduka cuối cùng đã tìm về được với cội nguồn bằng một bản hợp đồng khoác áo Dinamo Zagreb. Trong ba mùa giải chơi cho CLB thủ đô Croatia, chân sút người Úc đã góp công lớn giúp đội nhà giành tới ba chức vô địch liên tiếp cũng như nhiều danh hiệu khác. Mặc dù vậy, kể từ thời điểm tổng thống Franjo Tudjman – người từng trực tiếp tác động để đưa Viduka về chơi cho Dinamo Zagreb, gặp nhiều vấn đề liên quan đến bê bối chính trị thì sự mến mộ dành cho tiền đạo sinh năm 1975 tại quê nhà cũng dần dần trở nên mờ nhạt.

Các CĐV bắt đầu chửi rủa và la ó Viduka ngay cả khi anh ghi bàn trong trận derby với Hajduk Split. “Tôi không nghĩ đây là bóng đá nữa rồi. Không có gì đáng được gọi là thể thao ở đây cả”, ngôi sao của ĐTQG Australia nhớ lại.

Khoảng thời gian cuối ở Zagreb đã thực sự ảnh hưởng tới tâm lý của Viduka. Để rồi, tới khi ký hợp đồng với Celtic, chỉ ba ngày sau khi tới Glasgow, anh đã bay về Melbourne do căng thẳng, thậm chí còn nghĩ đến việc rời bỏ bóng đá hoàn toàn. Trong bối cảnh sức khỏe tinh thần bị giảm sút đáng kể, phải tới cuối mùa giải đầu tiên, Viduka mới tìm lại được phong độ. Mùa giải 1999/2000, anh ghi 25 bàn sau 28 lần ra sân và giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất SPFA.

Sự bùng nổ ở phương Bắc đã thúc đẩy Leeds United đầu tư 6 triệu bảng để giành lấy chữ ký của Viduka, bên cạnh một Alan Smith tiềm năng, qua đó giúp CLB có đầy đủ những hạt nhân mạnh mẽ nhất để lọt vào tới bán kết Champions League 2001. Mùa giải tiếp theo, Viduka lập một cú poker để đời vào lưới Liverpool tại sân Elland Road, nơi anh đánh dấu bước ngoặt biến mình trở thành một huyền thoại săn bàn ở xứ sở sương mù.

Đối với giới chuyên môn, Viduka không những không phù hợp với Premier League mà còn trở thành một cây săn bàn thượng thặng của giải đấu. Tiền đạo người Úc không chỉ cao lớn với khả năng đe dọa từ không trung tiềm tàng mà còn đặc biệt nguy hiểm khi có bóng trong chân. Anh có thể chạm bóng một cách nhẹ nhàng, uyển chuyển trước khi tung ra những cú dứt điểm uy lực, khiến các hậu vệ trở nên thừa thãi trong một không gian hỗn loạn. Nếu đối thủ càng chú ý đến Viduka, anh càng có nhiều cơ hội để thu hút năng lượng phòng ngự và mở ra không gian cho những vệ tinh khéo léo xung quanh như Smith, Harry Kewell và Lee Bowyer.

Quay trở lại màu áo ĐTQG, vào năm 2005, dường như đã chứng kiến một sự thay đổi to lớn dành cho Viduka và cả những người Australia. Ở trận play-off vốn đã trở thành nỗi ám ảnh, Socceroos bất ngờ đánh bại Uruguay để giành suất tham dự World Cup 2006. Với tấm băng đội trưởng trên vai, Viduka trở thành biểu tượng cho khoảnh khắc thể thao vĩ đại nhất nước Úc.

Trong giải đấu chính thức trên đất Đức, cựu tiền đạo Dinamo Zagreb có cơ hội dẫn dắt đội nhà chạm trán Croatia ở trận vòng bảng cuối cùng diễn ra tại Stuttgart. Đặc biệt, đội hình Australia khi ấy có tới 7 cầu thủ mang nguồn gốc Croatia, bao gồm cả Viduka. Đó là một trận cầu khá đặc biệt, cho thấy những cầu thủ “di cư” này có đủ tài năng để lựa chọn lòng trung thành của riêng mình và đưa ĐT Australia lọt vào vòng knock-out.

Những ca chấn thương dai dẳng đã phần nào khiến Viduka đánh mất đi sự năng động của tuổi trẻ nhưng trên hàng công của ĐT Úc, anh vẫn là một biểu tượng cho thấy một cộng đồng bóng đá đoàn kết đang sẵn sàng chinh phục những mục tiêu hoang đường nhất. Điều này càng trở nên kỳ lạ hơn khi mới chỉ cách đó một thập kỷ, Viduka vẫn còn là một chiếc cột thu lôi bảo lưu cho quan điểm “Hãy trở về cội nguồn của bạn”. Nhưng đến năm 2006, anh đã không còn là một người Croatia di cư tới Australia nữa. Hãy gọi anh là người Úc gốc Croatia. Bản thân Viduka cũng không còn lười biếng và thích ngủ sau khi đá bóng, giờ đây anh đã trở thành một nhà lãnh đạo thực thụ.

Có cảm giác rằng Viduka chưa bao giờ phát tiết trọn vẹn những tố chất của mình. Cầu thủ từng khoác áo Leeds United chia tay sự nghiệp quốc tế khi mới chỉ 31 tuổi và quyết định giải nghệ hoàn toàn ở độ tuổi 33 với những chấn thương dai dẳng. Khi còn ở đỉnh cao phong độ, bản năng săn bàn của Viduka là tuyệt vời với bộ kỹ năng toàn diện, một thần đồng xuất chúng mà bóng đá Úc từng sản sinh ra. Thậm chí, với những phức tạp của cuộc sống bên ngoài, thật đáng kinh ngạc khi ngôi sao gốc Nam Tư cũ vẫn có thể đạt đến đỉnh cao như vậy.

“Tôi không thích phơi bày quá nhiều về cuộc sống của mình. Ngay từ nhỏ, cha tôi đã dạy tôi đức tính khiêm tốn và đừng bao giờ nghĩ mình giỏi. Điều ấy đã nuôi dưỡng tôi trưởng thành. Nhưng thế giới bóng đá thì không đơn giản như vậy vì khiêm tốn có thể tốt nhưng đôi lúc, bạn cũng nên tự hào một chút về những gì mình làm được. Tôi từng ước mình có thể trở thành một con người khác”, Viduka trả lời phỏng vấn vào năm 2011.

Sau khi nghỉ hưu, biểu tượng của bóng đá Úc sống một cuộc đời bình lặng ở Melbourne cùng vợ và các con mình. Anh vẫn luôn là một CĐV đặc biệt trung thành của Melbourne Knights, CLB đầu tiên và duy nhất ở Australia mà Viduka từng cống hiến. Cũng có một giai đoạn khá dài, cựu tiền đạo Leeds United chọn quay trở về Zagreb để mở quán cà phê và tận hưởng niềm đam mê trở thành một barista thực thụ.

“Nếu pha một tách cà phê dở, bạn nên ném vào thùng rác ngay lập tức. Nó giống như khi bỏ lỡ một cơ hội ghi bàn ngon ăn vậy”, tiền đạo sinh năm 1975 chia sẻ. 

Là người Úc hay người Croatia, đối với Mark Viduka có lẽ cũng chẳng còn quá quan trọng nữa. Giữa hai dòng máu tưởng chừng như không có điểm chung, anh vẫn tồn tại như một biểu tượng cho sự thành công rực rỡ nhờ tài năng thiên bẩm và tinh thần cống hiến hết mình trên sân cỏ.

Exit mobile version